Chương 1: Tình anh em

Người nhận ra Hạ Dung có gì không ổn ngay từ lúc đầu chính là Hạ Chân.

Hạ Dung quá im lặng, im lặng đến bất thường.

Cậu luôn ngồi ngốc một mình bên cửa sổ. Gọi tên cậu, cậu thường chẳng nghe thấy nhiều, ngay cả khi có nghe thấy được đi nữa thì con ngươi cũng chỉ ngơ ngác đảo vài vòng rồi mới phóng tầm mắt đến nơi chính xác, sau đó nhẹ giọng hỏi: “Gì vậy?”

Hạ Chân có hơi nghi ngờ, trước tiên là quan sát trong im lặng một thời gian. Anh phát hiện dường như Hạ Dung chẳng biểu lộ cảm xúc gì, từ trước đến giờ vốn chẳng quá vui mừng, cũng chẳng quá tức giận, tựa như thu hẹp cả thế giới lại, thu hẹp cho đến khi chỉ còn chừa lại một mình cậu.

Mỗi lần anh nhìn thấy lúc Hạ Dung có trạng thái tách biệt như thế này, luôn có một lỗi giác rằng sắp sửa mất cậu, không tự chủ được vươn tay ra muốn kéo lấy cánh tay của cậu, ngăn cậu khỏi bay bổng ở nửa đường, nhưng lại thường tự cảm thấy buồn cười rồi cụt hứng buông thõng tay.

Cuối cùng vào bữa tối một ngày nọ, Hạ Chân nói ra hết những phát hiện từ trước đến giờ của bản thân.

Hiển nhiên là Hạ Dung chẳng để ý đến việc bản thân bị đưa ra thảo luận, không gây tiếng động, cúi đầu ăn cơm.

Người cha có chút không xác định nhìn anh, nói: “Có phải là do nó quá ngoan không?”

Phản ứng của người mẹ rất kịch liệt, sắc mặt biến xấu nói: “Chẳng lẽ là… khi nào em có thời gian thì sẽ đưa nó đi bác sĩ khám một đợt.”

Hạ gia là gia đình tiêu biểu điển hình cho giai cấp mới nổi ở Trung Quốc: Người cha là một CFO trong một công ty ngoại tư cỡ trung, người mẹ là người dẫn chương trình nổi tiếng ở thành phố này. Ngày nghỉ đối với hai người này mà nói chẳng qua những con số vô nghĩa và làm tăng thêm sự mệt mỏi vô hạn mà thôi.

Vào cuối tuần, người mẹ dù sao đi nữa thì cũng dành ra một ngày nghỉ, đưa Hạ Dung đến một bệnh viện trực thuộc Đại học Y khoa.

Đúng như bà lo lắng, Hạ Dung đích xác mắc phải bệnh rối loạn phát triển của hệ thần kinh ở trẻ em – tự kỷ.

Con của chị chính là một đứa may mắn trong số những đứa trẻ bị tự kỷ, trí tuệ vẫn phát triển bình thường, trở ngại giao tiếp cũng không có, đến đặc điểm của tự kỉ cũng có thể gọi là ở mức độ nhẹ, trải qua trị liệu và huấn luyện tích cực, phục hồi hẳn hoặc gần hồi phục lại thành tiêu chuẩn của một đứa trẻ bình thường là chuyện rất có khả năng.

Một vị giáo sư chuyên khoa có quyền thế đã nói, nhưng như vậy vốn chẳng đủ làm người mẹ nhẹ nhõm đi ít nhiều gì.

Trong khi bà bôn ba đi khắp các bệnh viện lớn, tình trạng của Hạ Dung vốn chẳng có chút tiến triển gì.

Hôm nay, bà ở hành lang của bệnh viện nào đó đột nhiên ngừng bước chân hối hả của mình lại, đứng tại chỗ một lúc, trong tầm mắt đều là một màu trắng toát đơn điệu, cũng giống như tâm trạng trống trải của một người làm mẹ là bà.

Tựa như đã đưa ra quyết định, bà lặng im rất lâu, sau đó cúi người ôm lấy khuôn mặt bé nhỏ non nớt của Hạ Dung, nhẹ giọng hỏi: “Con không muốn đi khám bác sĩ đúng không?”

“… Dạ đúng.”

Bà không biết một đứa trẻ sáu tuổi có đủ để tự suy nghĩ rồi đưa ra quyết định không, nhưng bà vẫn hỏi như vậy, dùng phương thức đối với người lớn để thăm hỏi ý kiến của con mình. Bà thật sự không muốn nghĩ đến bộ dạng thờ ơ trơ như gỗ đá của Hạ Dung lúc quay mặt nhìn ra ngoài cửa sổ trước những câu hỏi dò của những bác sĩ già dặn có kinh nghiệm kia.

Dạ đúng. Đây chính là câu trả lời chậm chạp nhưng lại rõ ràng của Hạ Dung.

Ngay lúc đó, nước mắt người mẹ tuôn trào, bà nghẹn ngào nắm lấy tay cậu, nói: “Được, chúng ta về nhà.”

Vì thế, những trị liệu liên quan đến chứng tự kỷ của Hạ Dung liền kết thúc, bỏ dở kết quả nửa đường.

Xem ra như vậy, có phải lúc này một sinh mạng tươi đẹp đã bị vùi dập không? Nhưng mọi chuyện lại chẳng tệ như đã tưởng tượng.

Hạ Dung vẫn là một đứa trẻ ngoan như cũ, có thể tự lo liệu và tự lập, không từ chối người khác, chỉ im lặng. Dẫu cho sự im lặng này cũng là thoải mái lòng người rồi, bầu không khí trầm lặng lúc ở bên cậu vốn không tạo thành áp suất thấp làm người khác cảm thấy nghẹt thở, sự tồn tại của Hạ Dung tựa như là không khí, bạn sẽ không chú ý đến cậu ấy, nhưng bạn biết cậu ấy ở đó, trở thành một sự thoải mái thấm lòng luôn theo bạn.

Năm thứ hai, người mẹ mời gia sư về cho Hạ Dung, dạy cho cậu những thứ có thể học ở trường học. Chính là vì Hạ Dung từ chối đi học ở trường, đây là chuyện duy nhất cậu nói không với mẹ mình, hơn nữa dùng cách trực tiếp nhất mà lại cương quyết để nói ra – nhìn thẳng vào hai mắt bạn, nói với bạn: “Con không muốn đi học…”

Sau khi người mẹ kinh ngạc và buồn rầu rồi thì chọn cách chấp nhận. Bà dặn đi dặn lại gia sư rằng tiến độ học tập không cần nhanh quá, căn bản chỉ cần giữ khoảng cách gần gần với lịch trình giảng dạy ở trường ngoài là được, bà không xác định được thái độ của Hạ Dung đối với học tập là gì, nhưng bà hy vọng chí ít cũng hoàn thành được chín năm giáo dục bắt buộc.

Với khuôn mẫu gia đình như Hạ gia, việc nuôi một đứa trẻ chẳng có kỹ năng sống chẳng phải là vấn đề to tát gì lắm, người mẹ đã quyết định không đưa ra quá nhiều yêu cầu với Hạ Dung, bà chỉ mong cậu có thể ung dung mà sống.

Một ngày kia, Hạ Chân ngẫu nhiên nhìn qua những câu hỏi trong bài tập về nhà của gia sư giao cho Hạ Dung, đột nhiên nảy ra một ý tưởng, sau đó anh nói: “Anh dạy em học nhé?”

“Cái gì?” Hạ Dung nhìn anh nói.

“Chúng ta cho gia sư nghỉ dạy, rồi anh sẽ dạy em theo lịch trình giảng dạy trên trường, thế nào?”

“… Dạ được.”

Lúc Hạ Chân nói quyết định này của anh và em trai với cha mẹ, hai người họ không ngạc nhiên gì mà chấp nhận. Hai năm gần đây, gia sư dạy cho Hạ Dung đã đổi tổng cộng năm người, nào đâu phải là do bản thân Hạ Dung không vừa ý, cậu vốn chẳng biểu hiện một tia phản cảm với bất cứ gia sư nào, mà là do cha mẹ cậu cảm thấy không vừa ý, sao cũng cảm thấy không thích hợp, cụ thể là có vấn đề ở chỗ nào thì hai người họ không biết nói thế nào cho phải, vì vậy chỉ có thể đổi rồi lại đổi.

Bây giờ nhìn thấy bóng dáng vai kề vai cùng cầm một quyển sách giống nhau của hai anh em Hạ Chân Hạ Dung, người mẹ đột nhiên cảm thấy đúng rồi, đây mới là một sự kết hợp làm mình yên tâm.

Năng lực học tập của Hạ Dung không tệ, Hạ Chân dạy cũng khá tùy tiện, hai người họ cứ duy trì trạng thái một bên truyền thụ không hạn chế, một bên toàn tâm tin tưởng tiếp thu, dần dần rút ngắn khoảng cách giữa hai người lại, không biết bắt đầu tự lúc nào, mà những kiến thức Hạ Chân Hạ Dung nắm bắt được đã bằng nhau rồi.

– – Chỉ ngoài môn toán.

Hạ Chân trước giờ vẫn nhớ khung cảnh ngày đó lúc Hạ Dung nhẹ nhàng đẩy quyển sách toán trung học phổ thông trước mặt mình, cậu nói: “Em không thích học môn này.”

“Tại sao?” Hạ Chân tự động hỏi như vậy.

“Em không thích.”

Nghe thấy cậu nói như vậy, Hạ Chân trong phút chốc cảm thấy cay cay sống mũi – – em ấy nói không thích, Hạ Dung nói em ấy không thích! Thì ra đối với người và việc, Hạ Dung cũng phân chia rạch ròi giữa thích hoặc không thích, có lẽ cậu không nói, nhưng trong lòng anh hiểu rõ, hơn nữa còn phản ứng lại.

Hạ Chân vuốt vuốt tóc đối phương, nhẹ nhàng nói: “Được, chúng ta không học môn đó nữa. Nhưng, em hãy nhớ, Hạ Dung, nếu như em không thích gì thì nói hết với anh, đừng cứ im lặng mãi, anh sẽ không biết.”

“… Dạ.”

Ngoài việc cùng nhau học tập ra, có lúc sau khi ăn cơm xong, Hạ Chân dẫn Hạ Dung đến sân bóng rổ của trường chơi bóng. Dưới ráng chiều mơ hồ anh luyện tập dẫn bóng hoặc ném vào rổ, còn Hạ Dung thì chỉ đứng một bên im lặng xem. Không có đối thủ đủ để kí©h thí©ɧ tinh thần chiến đấu, không có nữ sinh đứng ở bên nhiệt tình reo hò, nhưng lại có thể làm cho cơ thể lẫn tinh thần anh sung mãn tràn trề năng lượng. Thường ngừng bước ở phía dưới rổ, quay đầu lại nhìn Hạ Dung, cậu vẫn luôn nở một nụ cười nhạt với mình, gương mặt tĩnh lặng vào một khắc đó lại tản ra một một hương thơm nhè nhẹ của một loại hoa nào đó, cứ đơn đơn giản giản thực thực hư hư như vậy mà vây quanh lấy Hạ Chân. Dần dần, Hạ Chân đã không còn biết bản thân cố gắng luyện tập là cho trận thi bóng rổ tháng sau, vẫn cứ vòn vẹn vì nụ cười nhạt như vậy của người trước mắt, giống như anh đã không thể phân biệt được ngọn nguồn của những thành tích học tập xuất sắc của mình là để lên đại học hạng nhất sau này, vẫn cứ vì duy trì khả năng có thể dạy Hạ Dung học mà cố gắng.

Hết chương 1.